Cơ sở pháp lý của bảo hộ SHTT trong thương mại quốc tế tại Việt Nam là sự kết hợp giữa Hiệp định thương mại TRIPS của WTO và bộ luật Sở hữu trí tuệ ra đời năm 2005 và sửa đổi vào các năm 2009, 2019 và 2022.
1. Hiệp định thương mại TRIPS của WTO:
1.1, Hiệp định TRIPS – Thỏa thuận đa phương về sở hữu trí tuệ cho đến hiện nay
Trong mối tương quan với các thỏa thuận quốc tế khác về sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPS được coi là toàn diện nhất xuất phát từ những đặc điểm sau đây của Hiệp định: Trước hết nó là kết quả của sự kết hợp một số công ước quốc tế ra đời trước đó. Không những vậy, nó còn thiết lập các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu trong thời hạn cụ thể cho hầu hết các đối tượng sở hữu trí tuệ, đó là quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế (bao gồm giống cây trồng), thiết kế bố trí mạch tích hợp, thông tin bí mật. Nó chứa đựng những quy định mở nhưng cũng đồng thời thiết lập những quy định thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ nhất, Hiệp định TRIPS là kết quả của sự kết hợp những điều ước quốc tế quan trọng nhất trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Những điều ước quốc tế này là Công ước Paris, Công ước Bern, Công ước Rome, Công ước Washington. Quy định của những điều ước quốc tế này có hiệu lực bắt buộc thậm chí đối với những quốc gia chưa phê chuẩn điều ước, ngoại trừ Công ước Rome có hiệu lực bắt buộc với những nước đã là thành viên của Công ước. Sự kết hợp của các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ nêu trên trong Hiệp định TRIPS được xem xét và giải thích trong khuôn khổ Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong các vụ như US-Section 211 Appropriations Act (US-Havana Club), EC-Bananas (Điều 22.6) (Ecuador),.. Đặc biệt, trong vụ US-Section 211 Appropriations Act (US-Havana Club), Cơ quan phúc thẩm chỉ ra rằng các nước thành viên có nghĩa vụ bảo hộ tên thương mại theo Điều 8 Công ước Paris (1967) bởi vì quy định này đã được chuyển tải vào Điều 2 Hiệp định TRIPS.
Thứ hai, Hiệp định TRIPS thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu đối với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho tất cả các Thành viên WTO bất kể mức độ phát triển. Đối với mỗi đối tượng sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPS thiết lập những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu mà các nước thành viên phải tuân thủ. Nội dung chính của những tiêu chuẩn này là đối tượng được bảo hộ, đối tượng không được bảo hộ, quyền (bao gồm thời hạn bảo hộ tối thiểu), những trường hợp ngoại lệ của những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu. Những tiêu chuẩn này được thể hiện trong Hiệp định TRIPS dưới hai dạng. Trước hết, Hiệp định TRIPS đòi hỏi các Thành viên WTO tuân thủ những quy định cơ bản, quan trọng của Công ước Paris và Công ước Berne đã được chuyển tải vào Hiệp định TRIPS. Hơn nữa, Hiệp định TRIPS quy định thêm một số nghĩa vụ cho các Thành viên WTO mà những nghĩa vụ này không quy định trong Công ước Paris và Công ước Berne. Đồng thời các Thành viên WTO có nghĩa vụ tuân thủ và áp dụng các tiêu chuẩn bảo hộ do Hiệp định TRIPS thiết lập.
Thứ ba, Hiệp định TRIPS trao cho các Thành viên WTO quyền tự quyết nhất định. Bên cạnh những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu, Hiệp định TRIPS giành quyền tự quyết cho các Thành viên trong một số vấn đề nhằm giúp các nước thiết lập tiêu chuẩn quốc gia về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo chính sách của các nước này trên cơ sở các quy định tuỳ nghi
Cuối cùng, lần đầu tiên Hiệp định TRIPS thiết lập một cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả. Một trong những khác biệt lớn nhất giữa Hiệp định TRIPS và các điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ được ban hành trước Hiệp định là: Hiệp định bao gồm các quy định chi tiết hơn nhằm đảm bảo thực thi những cam kết của Hiệp định. Những tranh chấp sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPS có thể được giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau như dân sự, hành chính, biện pháp tạm thời, biện pháp kiểm soát biên giới và biện pháp hình sự.Những tranh chấp phát sinh thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPS được giải quyết theo thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO. Tức là, về nguyên tắc, các nguyên tắc của WTO được quy định trong GATT cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được áp dụng.
Với những đổi mới vừa nêu trên, cho đến nay, Hiệp định TRIPS được đánh giá là thỏa thuận đa phương về sở hữu trí tuệ toàn diện nhất. Hiệp định là sự củng cố có ý nghĩa quan trọng nhất đối với những tiêu chuẩn toàn cầu trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
1.2 Phạm vi bảo hộ của Hiệp định TRIPS:
1.2.1, Quyền tác giả và quyền liên quan:
1.2.1.1, Quyền tác giả:
Hiệp định TRIPS khẳng định phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm sự thể hiện và không bao gồm các ý tưởng, trình tự, phương pháp tính hoặc các khái niệm toán học (Điều 9.2). Các chương trình máy tính, dù dưới dạng mã nguồn hay mã máy, đều phải được bảo hộ quyền tác giả như những tác phẩm văn học (Điều 10.1). Các cơ sở dữ liệu, bộ sư tập dữ liệu hoặc tư liệu khác đều phải được bảo hộ quyền tác giả thậm chí cơ sở dữ liệu chứa đựng dữ liệu không được bảo hộ quyền tác giả (Điều 10.2).
Theo quy định tại Điều 12, nếu thời hạn bảo hộ tác phẩm (ngoại trừ đối với tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm nghệ thuật ứng dụng) không được tính theo đời người, thời hạn đó không được dưới 50 năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được công bố một cách hợp pháp, hoặc 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được tạo ra nếu tác phẩm không được công bố một cách hợp pháp trong vòng 50 năm từ ngày tạo ra tác phẩm. Hiệp định TRIPS yêu cầu các nước thành viên WTO giới hạn những hạn chế và ngoại lệ đối với các độc quyền trong những trường hợp đặc biệt nhất định nhưng với điều kiện không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không làm tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của chủ thể nắm giữ quyền (Điều 13). Trong vụ việc US- Section 110(5) Copyright Act, Ban hội thẩm đã giải thích Điều 13 Hiệp định TRIPS, cụ thể về các nội dung: phạm vi, mối quan hệ với các quy định khác và điều kiện áp dụng.
1.2.1.2, Quyền liên quan:
Hiệp định TRIPS bao gồm những quy định về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát thanh, truyền hình. Theo Hiệp định, người biểu diễn có quyền ngăn cấm ghi thu, lưu định cuộc biểu diễn bằng phương tiện ghi âm. Quyền ghi thu, lưu định của người biểu diễn chỉ liên quan đến âm thanh chứ không liên quan đến cả âm thanh và hình ảnh. Người biểu diễn còn có quyền ngăn cấm tái tạo, nhân bản bản ghi âm. Người biểu diễn cũng có quyền ngăn cấm phát qua phương tiện vô tuyến và truyền cho công chúng buổi biểu diễn trực tiếp của họ (Điều 14.1). Hiệp định TRIPS yêu cầu các nước thành viên WTO cho phép nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền sao chép các bản ghi âm của họ (Điều 14.2). Thêm vào đó, theo Điều 14.4, nhà sản xuất bản ghi âm còn có độc quyền cho thuê bản ghi âm. Các tổ chức phát thanh, truyền hình phải có quyền ngăn cấm các hành vi sau đây nếu thực hiện mà không được họ cho phép: ghi, sao chép bản ghi, phát lại qua phương tiện vô tuyến chương trình, cũng như truyền hình cho công chúng các chương trình (Điều 14.3).
Thời hạn bảo hộ người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm ít nhất là 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà việc ghi âm hoặc buổi biểu diễn được tiến hành và thời hạn bảo hộ tổ chức phát sóng ít nhất là 20 năm tính khi kết thúc năm dương lịch mà chương trình phát thanh, truyền hình được thực hiện (Điều 14.5). Hiệp định TRIPS cho phép các nước thành viên WTO quy định về các điều kiện, hạn chế, ngoại lệ và bảo lưu đối với những quyền được quy định cho người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát thanh, truyền hình trong phạm vi quy định của Công ước Rome (Điều 14.6.)
1.2.2, Nhãn hiệu:
Hiệp định TRIPS quy định rất rộng về phạm vi các dấu hiệu có khả năng được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu, đó là bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu, bao gồm dấu hiệu nhìn thấy được (như các chữ cái, các chữ số, các yếu tố hình họa) và dấu hiệu không nhìn thấy được (như âm thanh, mùi, vị) có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể được đăng ký làm nhãn hiệu (Điều 15.1). Các nước thành viên WTO có thể quy định khả năng được đăng ký phụ thuộc vào “tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng” khi bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng.
Theo quy định tại Điều 17, các Thành viên WTO có thể quy định một số ngoại lệ đối với các quyền đã quy định cho chủ sở hữu nhãn hiệu, chẳng hạn như sử dụng lành mạnh các thuật ngữ mang tính chất mô tả, với điều kiện những ngoại lệ đó không ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu và của bên thứ bên. Thời hạn bảo hộ nhãn hiệu cho lần đầu đăng ký đầu tiên và mỗi lần gia hạn ít nhất là 07 năm. Số lần gia hạn hiệu lực đăng ký nhãn hiệu không bị giới hạn (Điều 18).
Về yêu cầu sử dụng nhãn hiệu, Hiệp định TRIPS quy định như sau: chỉ được hủy bỏ một nhãn hiệu trên cơ sở không sử dụng nếu việc không sử dụng diễn ra ít nhất ba năm liên tục, trừ trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra những lý do chính đáng cản trở việc sử dụng nhãn hiệu. Các trường hợp không sử dụng nhãn hiệu không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu nhãn hiệu, chẳng hạn việc hạn chế nhập khẩu hoặc những hạn chế khác của chính phủ, được coi là lý do chính đáng cho việc không sử dụng nhãn hiệu. Việc người khác sử dụng nhãn hiệu dưới sự kiểm soát của chủ sở hữu nhãn hiệu phải được công nhận là sử dụng nhãn hiệu nhằm duy trì hiệu lực đăng ký nhãn hiệu (Điều 19)
1.2.3, Chỉ dẫn địa lý:
Định nghĩa chỉ dẫn địa lý được đưa ra tại Điều 22.1 Hiệp định TRIPS. Theo đó, “chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một nước Thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định.” Hiệp định yêu cầu các Thành viên WTO cung cấp các phương tiện pháp lý để ngăn chặn việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn cho công chúng về nguồn gốc địa lý của hàng hóa và việc sử dụng cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo nghĩa của Điều 10bis Công ước Paris (Điều 22.2).
Mối quan hệ giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý được đề cập tại Điều 22.3. Cụ thể, phải từ chối đăng ký nhãn hiệu hoặc hủy bỏ hiệu lực của nhãn hiệu đã đăng ký theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu của các bên liên quan, nếu nhãn hiệu sử dụng chỉ dẫn địa lý gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ thực của hàng hóa.
Cần lưu ý rằng Hiệp định TRIPS cung cấp sự bảo hộ đặc biệt đối với các chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang và rượu mạnh (Điều 23). Theo đó, các Thành viên WTO phải cung cấp những biện pháp pháp lý để ngăn ngừa việc sử dụng một chỉ dẫn địa lý của rượu vang cho những loại rượu vang không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó. Quy định này cũng được áp dụng trong trường hợp công chúng không nhầm lẫn, không cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh và nguồn gốc thực sự của hàng hóa được chỉ ra hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng gắn với các từ như “loại”, “kiểu”, “dạng”, “phỏng theo” hoặc tương tự như vậy. Việc bảo hộ tương tự được áp dụng cho rượu mạnh và cho nhãn hiệu. Các trường hợp ngoại lệ đối với bảo hộ chỉ dẫn địa lý được quy định tại Điều 24.
1.2.4, Kiểu dáng công nghiệp:
Hiệp định TRIPS yêu cầu các Thành viên WTO bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp mới hoặc nguyên gốc được tạo ra một cách độc lập và sự bảo hộ đó không áp dụng cho những kiểu dáng công nghiệp chủ yếu do đặc tính kỹ thuật và chức năng quyết định (Điều 25.1).
Xuất phát từ mối liên hệ không thể phủ nhận giữa kiểu dáng công nghiệp và ngành công nghiệp dệt, thời gian tồn tại ngắn của những kiểu dáng mới trong lĩnh vực dệt, Hiệp định TRIPS bao gồm một quy định riêng về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cho hàng dệt. “Bảo hộ đối với các kiểu dáng hàng dệt, đặc biệt là yêu cầu về lệ phí, xét nghiệm hoặc công bố, không làm giảm một cách bất hợp lý cơ hội tìm kiếm và đạt được sự bảo hộ đó. Các Thành viên được tự do lựa chọn áp dụng pháp luật kiểu dáng công nghiệp hoặc pháp luật bản quyền để thực hiện nghĩa vụ này” (Điều 25.2).
Điều 26.1 yêu cầu các Thành viên WTO trao cho chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp quyền ngăn cấm những người không được sự đồng ý của mình sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc thể hiện một kiểu dáng là bản sao, hoặc về cơ bản là bản sao, của kiểu dáng đã được bảo hộ, nếu các hành vi này nhằm mục đích thương mại. Các Thành viên được phép quy định các ngoại lệ đối với việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp với điều kiện các ngoại lệ đó không mâu thuẫn bất hợp lý với việc khai thác bình thường kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ và không làm tổn hại một cách bất hợp lý lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ, trong trường hợp này cần xem xét cả lợi ích của các bên thứ ba (Điều 26.2). Thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp tối thiểu là 10 năm (Điều 26.3).
1.2.5, Sáng chế:
Hiệp định TRIPS đòi hỏi các Thành viên bảo hộ sáng chế cho sản phẩm hoặc quy trình thuộc mọi lĩnh vực công nghệ với điều kiện sản phẩm hoặc quy trình có tính mới, có trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp (Điều 27.1). Có thể loại trừ không cấp bằng độc quyền sáng chế trong ba trường hợp. Thứ nhất, đối với những sáng chế trái ngược với trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội; kể cả những sáng chế gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người và động vật hoặc thực vật hoặc để tránh gây nguy hại nghiêm trọng cho môi trường (Điều 27.2). Thứ hai, các Thành viên có thể không cấp bằng độc quyền sáng chế cho các phương pháp chẩn đoán bệnh, các phương pháp nội và ngoại khoa để chữa bệnh cho người và động vật (Điều 27.3(a)). Thứ ba, các Thành viên có thể không cấp bằng độc quyền sáng chế cho thực vật và động vật, chủ yếu mang tính chất sinh học và không phải là các quy trình phi sinh học hoặc vi sinh. Tuy nhiên, bất kỳ nước nào không bảo hộ giống cây trồng theo hệ thống sáng chế đều phải quy định một hệ thống bảo hộ riêng hữu hiệu đối với giống cây trồng (Điều 27.3(b)).
Chủ sở hữu sáng chế có quyền sản xuất, sử dụng, chào hàng, bán sản phẩm và nhập khẩu sản phẩm để thực hiện những mục đích nêu trên. Nếu sáng chế là một quy trình, chủ sở hữu sáng chế không chỉ có quyền đối với quy trình mà còn có quyền đối với sản phẩm tạo ra trực tiếp bằng quy trình đó. Chủ sở hữu sáng chế cũng có quyền chuyển nhượng, để lại thừa kế quyền đối với sáng chế và giao kết các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (Điều 28). Các Thành viên WTO có thể quy định những ngoại lệ đối với các quyền nêu trên, với điều kiện những ngoại lệ đó không mâu thuẫn bất hợp lý với việc khai thác bình thường sáng chế và không gây tổn hại bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu sáng chế và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba (Điều 30). Trong vụ Canada-Pharmaceutical Patents, Ban hội thẩm đã làm rõ các quyền chủ sở hữu sáng chế được quy định tại Điều 28 và những ngoại lệ đối với các quyền này được quy định tại Điều 30.
Thời hạn bảo hộ sáng chế không được ngắn hơn 20 năm tính từ ngày nộp đơn (Điều 33). Trong vụ Canada-Term of Patent Protection,Cơ quan phúc thẩm kết luận rằng: thời hạn bảo hộ sáng chế là 17 năm (tính từ ngày cấp văn bằng bảo hộ) cho những đơn đăng ký sáng chế được nộp trước ngày 01 tháng 10 năm 1989 và thường kết thúc trước 20 năm tính từ ngày nộp đơn theo quy định tại Phần 45 Đạo luật Sáng chế Canada không phù hợp với quy định tại Điều 33 Hiệp định TRIPS.
Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (li-xăng bắt buộc) hoặc sử dụng sáng chế do Chính phủ thực hiện mà không được phép của chủ thể nắm giữ quyền được thừa nhận nhưng với những điều kiện nhất định nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ thể nắm giữ quyền (Điều 31). Điều kiện áp dụng bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế được giảm nhẹ nhằm xử lý những thực tế chống cạnh tranh. Các điều kiện áp dụng này phải được xem xét trong mối quan hệ với các quy định liên quan tại Điều 27.1 của Hiệp định TRIPS.
1.2.6, Thiết kế bố trí mạch tích hợp:
Theo Hiệp định TRIPS, việc bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp dựa trên các quy định của Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp (Điều 35) và một số quy định bổ sung của Hiệp định TRIPS (Điều 36 đến Điều 38). Trong đó, Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp bao gồm định nghĩa “mạch tích hợp” và “thiết kế bố trí”, các điều kiện bảo hộ, các độc quyền, những giới hạn và khai thác, đăng ký, mở thiết kế bố trí mạch tích hợp.Các quy định về thiết kế bố trí mạch tích hợp trong Hiệp định TRIPS bổ sung bốn vấn đề quan trọng đáng kể cho Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp. Đó là khả năng bảo hộ sản phẩm chứa thiết kế bố trí bất hợp pháp (Điều 36); xử lý người vi phạm không có lỗi, đó là người thực hiện hành vi nhập khẩu, bán hoặc phân phối dưới hình thức khác nhằm mục đích thương mại mạch tích hợp chứa thiết kế bố trí bị sao chép bất hợp pháp hoặc bất kỳ sản phẩm nào chứa mạch hợp như vậy nếu tại thời điểm tiếp nhận mạch tích hợp hoặc sản phẩm chứa mạch tích hợp đó mà không biết hoặc không có căn cứ hợp lý để biết rằng trong đó chứa thiết kế bố trí bị sao chép bất hợp lý (Điều 37.1); áp dụng các quy định tại Điều 31 Hiệp định TRIPS đối với chuyển giao không tự nguyện quyền sử dụng thiết kế bố trí hoặc sử dụng thiết kế bố trí do Chính phủ thực hiện mà không được phép của chủ thể nắm giữ quyền, thay cho các quy định về bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng thiết kế bố trí (li-xăng bắt buộc) trong Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp (Điều 37.2).
1.2.7, Bí mật kinh doanh:
Khác với sáu đối tượng sở hữu trí tuệ đã đề cập ở trên, Hiệp định TRIPS chỉ rõ rằng việc bảo hộ thông tin bí mật nhằm bảo đảm “chống cạnh tranh không lành mạnh một cách hữu hiệu” (Điều 39.1.). Bên cạnh đó, Hiệp định bao gồm định nghĩa “thông tin bí mật” tại Điều 39.2. Theo quy định này, thông tin này phải có tính chất bí mật, có giá trị thương mại vì có tính chất bí mật, được giữ bí mật bằng các biện pháp hợp lý. Hiệp định TRIPS cũng quy định về dữ liệu thử nghiệm và các dữ liệu bí mật khác trong trường hợp phải nộp dữ liệu theo yêu cầu của Chính phủ để được phép tiếp thị dược phẩm hoặc các sản phẩm hóa nông có chứa những thành phần hóa học mới (Điều 39.3). Trong trường hợp như vậy, các Thành viên WTO “ phải bảo hộ để các dữ liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không lành mạnh …và không bị tiết lộ, trừ trường hợp cần bảo vệ công chúng hoặc trừ khi áp dụng các biện pháp nhằm bảo đảm các dữ liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không lành mạnh.”
2. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (Bổ sung năm 2009)
Một trong những cơ sở pháp lí để bảo hộ Quyền sở hữu trí tuệ hiện nay là Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022. Luật sở hữu trí tuệ là văn bản quy phạm pháp luật được nước ta ban hành nhằm mục đích bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ cho các cá nhân, tổ chức sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ. Luật sở hữu trí tuệ quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó cũng như các chế tài đối với các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ.
Theo Điều 3 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được pháp luật bảo vệ bao gồm các quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm:
“ 1.Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.
- Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
- Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch.”
Dựa trên Điều 3, ta có thể thấy đối tượng điều chỉnh của luật sở hữu trí tuệ là các quan hệ sở hữu trí tuệ, các quan hệ phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, các quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng tức là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân liên quan đến việc tạo ra, xác lập, sử dụng, định đoạt và bảo vệ quyền đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ (các đối tượng đã nêu trên).
4. Nghị định 22/2018/NA-CP:
Ngày 23/02/2018, Chính phủ ban hành Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 (Luật sở hữu trí tuệ) về quyền tác giả, quyền liên quan.
Nghị định quy định rõ về khai thác, sử dụng bản ghi âm, ghi hình. Cụ thể, tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 33 của Luật sở hữu trí tuệ phải trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan. Các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan có thể thỏa thuận, thống nhất, ủy quyền đàm phán, thu tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất theo quy định của pháp luật. Tỷ lệ phân chia tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất thu được do các tổ chức này tự thỏa thuận.
Tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan ủy quyền có trách nhiệm xây dựng danh mục hội viên, tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng của hội viên và chịu trách nhiệm khi ký hợp đồng ủy quyền cho tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan nhận ủy quyền đại diện đàm phán thỏa thuận, thu tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất. Nghị định cũng quy định thu, phân chia tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất. Theo đó, việc thu, phân chia tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất thực hiện theo quy định tại Điều lệ hoạt động của tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan và văn bản ủy quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có thỏa thuận về mức hoặc tỷ lệ phần trăm, phương thức và thời gian phân chia tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất. Trong trường hợp tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có liên quan đến quyền và lợi ích của nhiều tổ chức đại diện tập thể được ủy quyền đại diện cho một quyền, nhóm quyền cụ thể, các tổ chức có thể thỏa thuận để một tổ chức thay mặt đàm phán cấp phép sử dụng, thu và phân chia tiền theo Điều lệ và văn bản ủy quyền.
TỔNG KẾT:
Qua đó, ta có thể thấy trong thương mại quốc tế, quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò hết sức quan trọng và ngược lại. Do đó, sở hữu trí tuệ và thương mại quốc tế có vai trò tác động qua lại lẫn nhau. Theo đó, quyền sở hữu trí tuệ tạo nên giá trị sản phẩm, dịch vụ là đối tượng giao dịch trong thương mại quốc tế. Các sản phẩm và dịch vụ này được sản xuất, xây dựng dựa trên quyền sở hữu trí tuệ và giấy phép của việc thực hiện chuyển giao quyền. Chẳng hạn như âm nhạc, hội hoạ,… đều có thể mua bán, cung ứng ngoài phạm vi biên giới quốc gia, gọi là thị trường thương mại quốc tế. Chính vì vậy, sở hữu trí tuệ trong thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng khi trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của giá trị giao dịch trong thương mại quốc tế.
Bài viết do thực tập sinh Trần Vy Khanh –tại công ty Luật WINCO tổng hợp.