1. Quyền tác giả:
1.1 Định nghĩa và nội dung của quyền tác giả:
Trong pháp luật quốc tế, khái niệm về quyền tác giả đã quy định những trường hợp cho phép và cấm người khác sử dụng tác phẩm, phổ biến tác phẩm của tác giả. Hệ thống pháp luật dân sự bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả. Các nước theo hệ thống luật án lệ sử dụng khái niệm bản quyền vì muốn nhấn mạnh đến quyền thương mại của tác giả, của chủ sở hữu tác phẩm. Ở Việt Nam, khái niệm về quyền tác giả cũng được biết đến trước năm 1945. Theo Khoản 2, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Hay nói các khác quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật về quyền tác giả nhằm xác nhận và bảo vệ quyền tác giả của chủ sở hữu quyền tác giả, xác định các nghĩa vụ của chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm.
Về quyền tác giả, Điều 738 Bộ luật dân sự và Điều 19, 20 Luật sở hữu trí tuệ quy định quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm.
Trước hết, quyền nhân thân đối với tác phẩm là các quyền mang yếu tố tinh thần của chủ thể đối với tác phẩm. Cũng như tên gọi của nó, quyền nhân thân về bản chất là các quyền luôn gắn liền với các chủ thể nhất định mà không dịch chuyển được. Tuy nhiên, trong đó có những quyền tuy được xác định là quyền nhân thân nhưng nó vốn dĩ là cơ sở để chủ thể có các quyền đó thực hiện các quyền khác về tài sản. Và vì thế, muốn thực hiện các quyền về tài sản, người có quyền nhân thân này phải chuyển giao quyền đó cho chủ thể khác. Quyền nhân thân đối với tác phẩm được phân chia thành hai loại là quyền nhân thân không thể dịch chuyển và quyền nhân thân có thể dịch chuyển. Theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, quyền nhân thân của chủ thể đối với tác phẩm bao gồm:
- Quyền đặt tên cho tác phẩm
- Quyền đứng tên tác giả đối với tác phẩm
- Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả
- Quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm
Nếu quyền nhân thân đem đến cho tác giả các lợi ích tinh thần thì quyền tài sản đem đến cho tác giả các lợi ích vật chất. Các quyền tài sản đối với tác phẩm là các lợi ích vật chất có được từ tác phẩm mà tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có quyền được hưởng, bao gồm: Hưởng nhuận bút, hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng, hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm, nhận giải thưởng khi tác phẩm trúng giải,… Luật sở hữu trí tuệ quy định quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả bao gồm các quyền sau đây:
- Quyền làm tác phẩm phái sinh
- Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng
- Quyền sao chép tác phẩm
- Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm
- Quyền nhập khẩu bản sao tác phẩm
- Quyền truyền đạt tác phẩm đến với công chúng
- Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính
- Quyền hưởng nhuận bút
- Quyền được hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng
- Quyền được hưởng các lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm dưới các hình thức: xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh, truyền hình, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh, dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể,…
- Quyền nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả, trừ trường hợp tác phẩm không được nhà nước bảo hộ
Điều kiện bảo hộ quyền tác giả được quy định tại Điều 13 Luật sở hữu trí tuệ 2005, bao gồm:
- Là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và cũng là chủ sở hữu quyền tác giả;
- Là tổ chức, cá nhân Việt Nam hay nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào;
- Là tổ chức, cá nhân Việt Nam hay nước ngoài có tác phẩm được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác;
- Là tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.
Bên cạnh đó, các loại hình tác phẩm phải đủ điều kiện để được bảo hộ quyền tác giả được nêu tại Điều 14 bộ luật này:
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
- Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
- Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
- Tác phẩm báo chí, âm nhạc, nhiếp ảnh;
- Tác phẩm điện ảnh, sân khấu;
- Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
- Tác phẩm kiến trúc;
- Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học;
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
- Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
- Tác phẩm phái sinh (nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh).
1.2 Quyền tác giả trong Luật thương mại quốc tế:
Luật thương mại quốc tế quy định các quyền tác giả phải được bảo hộ như đã quy định trong các văn bản của WIPO và WTO. Chẳng hạn, chương trình máy tính sẽ được bảo hộ như các tác phẩm văn học theo đúng công ước Berne ( Bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật). Tuy vậy, hiệp định TRIPs mở rộng phạm vi điều chỉnh của các chương trình máy tính và các nhà thu âm còn có quyền không cho công chúng thuê các tác phẩm của họ. Độc quyền tương tự cũng được dành cho các tác phẩm điện ảnh. Việc kinh doanh, cho thuê đã khiến các tác phẩm điện ảnh bị sao chép rất nhiều, khiến người nắm giữ quyền tác giả không thu được hết lợi nhuận mà mình đáng ra được hưởng. Bên cạnh đó, người phiên dịch hoặc người biểu diễn cũng có quyền không cho thu âm, sao chép và phổ biến rộng rãi các hoạt động của họ ít nhất là trong vòng 50 năm. Các nhà sản xuất băng đĩa cũng có quyền không sao chép lại các sản phẩm của họ trong vòng 50 năm.
2. Nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ:
2.1 Định nghĩa và nội dung
Theo khoản 16, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ, “ Nhãn hiệu” là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, các cá nhân khác nhau.
Điều 73 Luật sở hữu trí tuệ 2005 có quy định về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu: “ Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc
- Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá dịch vụ của chủ thể khác”
Nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ phải đồng thời đáp ứng hai tiêu chí sau:
– Ở tiêu chí bảo hộ thứ nhất, nhãn hiệu phải hội tụ đủ 2 yếu tố. Thứ nhất là các dấu hiệu có thể nhìn thấy, có thể tri giác được. Thứ hai là các dấu hiệu cụ thể được xem xét là nhãn hiệu được tồn tại dưới dạng chữ cái, từ, hình ảnh, hình vẽ kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc. Luật sở hữu trí tuệ quy định các dấu hiệu bị loại trừ khi xem xét để cấp văn bằng bảo hộ tại Điều 73, các dấu hiệu sau đây không được cấp văn bằng bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu: Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước; biểu tượng; cờ; huy hiệu; tên viết tắt; tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép. Ví dụ: tên viết tắt của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO); tên thật, biệt hiệu, hình ảnh lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam,…
– Tiêu chí bảo hộ thứ hai: “ Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ…” theo khoản 1, Điều 74 Luật sở hữu trí tuệ. Nhãn hiệu dễ nhận biết là nhãn hiệu bao gồm các yếu tố đủ để tác động vào nhận thức, tạo nên ấn tượng có khả năng lưu giữ trong trí nhớ hay tiềm thức con người. Bất kỳ ai khi tiếp xúc với chúng đều dễ dàng tri giác và dễ ghi nhớ nhận biết về chúng khi đặt bên cạnh các loại khác. Bên cạnh đó, theo khoản 2 Điều 74, nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với các dấu hiệu của các hàng hoá dịch vụ trùng hoặc tương tự trong các trường hợp sau:
- Nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên
- Nhãn hiệu mà giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu đó đã hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực bảo hộ nhưng thời gian tính từ khi hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực chưa quá 5 năm ( trừ trường hợp hiệu lực bị đình chỉ vì lí do nhãn hiệu không được sử dụng)
- Nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng, thậm chí trong cả trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng đó được đăng kí bảo hộ, dịch vụ không tương tự nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có khả năng làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhầm lẫn lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng.
Thứ hai, nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu trùng hoặc tương tự với các đối tượng sở hữu công nghiệp sau:
- Tên thương mại đang được sử dụng của người khác nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ
- Chỉ dẫn địa lí đang được bảo hộ nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc địa lí của hàng hoá.
- Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng kí kiểu dáng công nghiệp
Căn cứ ở quy định về nhãn hiệu đã phân tích ở trên thì nhãn hiệu là dấu hiệu để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của cá nhân, tổ chức kinh doanh khác nhau. Như vậy, nhãn hiệu dùng để gắn lên các loại hàng hoá và các loại dịch vụ để chỉ ra chúng do ai sản xuất hay cung cấp. Hay có thể nói cách khác, nhãn hiệu gồm hai loại cơ bản là nhãn hiệu dùng cho hàng hoá và nhãn hiệu dùng cho dịch vụ.
2.2 Nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ trong Luật thương mại quốc tế:
Luật thương mại quốc tế định rõ các nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ cần được bảo hộ trong mức cần thiết của các quyền tối thiểu, chủ sở hữu cá nhãn hiệu dịch vụ phải được bảo hộ như chủ sở hữu các nhãn hàng hoá. Các nhãn hiệu nổi tiếng ở các nước phải còn được bảo hộ theo các quy chế bổ sung.
3. Chỉ dẫn địa lý:
3.1 Định nghĩa là nội dung:
Thuật ngữ “ chỉ dẫn địa lý” được hiểu là chỉ dẫn nguồn gốc địa lí, xuất xứ của hàng hoá”. Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại ngày nay thì chỉ dẫn địa lí là một vấn đề được quan tâm đặc biệt không chỉ từ nhà sản xuất hàng hoá mà còn cả phái người tiêu dùng. Vì vậy, chỉ dẫn địa lý được coi là một loại tài sản sở hữu trí tuệ có giá trị thương mại lớn và việc bảo hộ là cần thiết không những trong phạm vi quốc gia mà còn cả trên phạm vi quốc tế. Theo khoản 22 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “ Chỉ dẫn địa lí là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”. Như vậy, chỉ dẫn địa lý giúp cho người tiêu dùng biết được hàng hoá đó đến từ khu vực nào với những nét đặc thù riêng của khu vực đó như thế nào trong quá trình lựa chọn sản phẩm.
Điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý là một đối tượng sở hữu công nghiệp nếu đáp ứng được các điều kiện của Điều 79 Luật sở hữu trí tuệ. Chỉ dẫn địa lý chỉ rõ nguồn gốc địa lý của sản phẩm, chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu (có thể là tên gọi, biểu tượng hoặc hình ảnh) những dấu hiệu đó phải thỏa mãn các yêu cầu như:
- Phải gắn với một khu vực, địa phương cụ thể hay nói cách khác tên gọi, biểu tượng hình ảnh đó phải có thực và chỉ thuộc về khu vực địa phương đó mà thôi. Khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý có ranh giới được xác định chính xác bằng từ ngữ và bản đồ. Khu vực địa lý có thể là một đơn vị hành chính quốc gia, khi vực địa lý thuộc một hay nhiều đơn vị hành chính hoặc toàn bộ đơn vị hành chính hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia.
- Phải được dùng với mục đích duy nhất để chỉ rõ sản phẩm hàng hoá có nguồn gốc được sản xuất từ khu vực địa phương đó chứ không phải được gắn trên hàng hoá hay bao bì nhằm mục đích trang trí cho đẹp hay vì bất kỳ mục đích nào khác
Về phạm vi bảo hộ của chỉ dẫn địa lý, pháp luật quy định các đối tượng sau không được bảo hộ là chỉ dẫn địa lý ( Điều 80 Luật sở hữu trí tuệ):
- Tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hoá ở Việt nam tại thời điểm yêu cầu đăng ký
- Chỉ dẫn địa lý của nước ngoài mà tại nước đó chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ, đã bị chấm dứt bảo hộ hoặc không còn được sử dụng
- Chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện thì sẽ gây nhầm lẫn về nguồn gốc sản phẩm
- Chỉ dẫn địa lý gây hiểu sai lệch cho người tiêu dùng về nguồn gốc địa lí thực của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó.
3.2 Chỉ dẫn địa lý trong Luật thương mại quốc tế:
Tên một khu vực địa lý, một địa điểm đôi khi được sử dụng để nhận dạng sản phẩm. Chỉ dẫn địa lý này không những chỉ ra nơi sản phẩm được sản xuất mà đặc biệt còn chỉ ra các đặc tính của sản phẩm có được từ nguồn gốc của nơi sản xuất ra nó. Các cái tên như “ Champagne”, “Scotch” là những ví dụ mà ai cũng biết. Những nhà sản xuất rượu vang hay rượu mạnh đặc biệt coi trọng việc sử dụng địa danh để nhận dạng các sản phẩm này. Chỉ dẫn địa lý được một số điều khoản đặc biệt của hiệp định TRIPs điều chỉnh. Tuy vậy, đây cũng là vấn đề quan trọng đối với các loại hàng hoá khác.
Việc sử dụng tên khu vực địa lí, địa điểm khi sản phẩm được sản xuất ở nơi khác hoặc không có được những tính năng vốn có của sản phẩm sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh. Hiệp định TRIPs quy định nghĩa vụ các nước thành viên phải ngăn cấm việc sử dụng bừa bãi các địa danh gắn lên sản phẩm. Đối với rượu vang và rượu mạnh, các hiệp định quy định mức độ bảo hộ cao hơn, tức là ngay cả khi không có nguy cơ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, luật thương mại quốc tế cho phép một số ngoại lệ, đặc biệt khi địa danh đã được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hoá hoặc thương hiệu hoặc khi nó đã trở thành tên chung. Ví dụ : từ “Cheddar ” ngày nay được dùng để chỉ một loại phomat đặc biệt không nhất thiết phải được sản xuất ở vùng cheddar thuộc nước anh. Tuy nhiên, nước nào muốn nêu ngoại lệ vì những lý do này đều phải tiến hành đàm phán với những nước cũng muốn bảo hộ chỉ dẫn địa lý đó.
4. Kiểu dáng công nghiệp:
4.1 Định nghĩa và nội dung:
Khoản 13 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “ Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp của các yếu tố này”. Sản phẩm được hiểu là đồ vật, dụng cụ, phương tiện…được sản xuất bằng phương pháp công nghiệp hay thủ công nghiệp, có kết cấu và chức năng rõ ràng được lưu thông độc lập.
Điều 25 Hiệp định TRIPs quy định về các điều kiện bảo hộ đối với kiểu dáng công nghiệp như sau. Các thành viên phải bảo hộ kiểu dáng công nghiệp mới hoặc nguyên gốc được tạo ra một cách độc lập. Các thành viên có thể quy định rằng kiểu dáng công nghiệp không được coi là mới hoặc nguyên gốc nếu không khác biệt cơ bản với những kiểu dáng đã biết. Các thành viên có thể quy định rằng việc bảo hộ đó không áp dụng cho những kiểu dáng mà hình dáng đó chủ yếu do các đặc tính kỹ thuật và chức năng quyết định. Các thành viên được tự do chọn áp dụng luật kiểu dáng công nghiệp hoặc luật bản quyền để thực hiện nghĩa vụ này.
Ở Việt Nam, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ theo các quy định pháp luật sở hữu công nghiệp còn về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp theo luật bản quyền thì hiện chưa có quy định cụ thể.
Để được đăng ký bảo hộ đối với kiểu dáng công nghiệp phải đáp ứng được các tiêu chí sau đây ( Điều 63 Luật sở hữu trí tuệ). Trước hết là tính mới của kiểu dáng công nghiệp phải đạt được 3 tiêu chí ( Điều 65 Luật sở hữu trí tuệ). Thứ nhất là kiểu dáng công nghiệp được công nhận là có tính mới nếu tính đến ngày nộp đơn, kiểu dáng công nghiệp đó có sự khác biệt rõ rệt với những kiểu dáng công nghiệp đã tồn tại trước đó.
Thứ hai, kiểu dáng công nghiệp không được coi là khác biệt cơ bản với nhau nếu chỉ khác biệt bởi các đặc điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết và ghi nhớ được. Và cuối cùng, kiểu dáng công nghiệp yêu cầu bảo hộ chưa bị bộc lộ công khai ở bất cứ đâu, dưới hình thức nào tính đến ngày nộp đơn. Tiêu chí thứ hai là tính sáng tạo, sự sáng tạo của kiểu dáng công nghiệp được thể hiện thông qua yếu tố cơ bản (Điều 66 Luật sở hữu trí tuệ), là kiểu dáng công nghiệp đó phải là thành quả sáng tạo của tác giả, nó không được tạo ra một cách dễ dàng đối với có trình độ trung bình trong lĩnh vực tương ứng.
Thứ ba, muốn được đăng ký bảo hộ thì kiểu dáng công nghiệp đó phải được công nhận là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể làm mẫu để chế tạo hàng loạt bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp đó.
Tóm lại, kiểu dáng được cấp văn bằng bảo hộ nếu về mặt nội dung thỏa mãn được cả 3 tiêu chí cơ bản như đã nên ở trên. Về phạm vi bảo hộ, Điều 64 Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định cụ thể những đối tượng không có khả năng được bảo hộ dưới danh nghĩa kiểu dáng công nghiệp, bao gồm:
- Hình dáng bên ngoài của sản phẩm do đặc tính kỹ thuật của sản phẩm bắt buộc phải có
- Hình dáng bên ngoài của công trình xây dựng dân dụng hoặc công nghiệp
- Hình dáng của sản phẩm không nhìn thấy được trong quá trình sử dụng sản phẩm.
4.2 Kiểu dáng công nghiệp trong Luật thương mại quốc tế:
Theo luật thương mại quốc tế, các bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp phải được bảo hộ ít nhất trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo hộ phải có quyền ngăn cấm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc có chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ.
5. Bằng sáng chế:
5.1 Định nghĩa và nội dung:
Theo khoản 12 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ thì sáng chế là giải pháp kĩ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề được xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Giải pháp kỹ thuật ở đây có thể hiểu là cơ cấu, phương pháp hay chất mới hay sử dụng cơ cấu, phương pháp cũ theo chức năng mới.
Về điều kiện bảo hộ đối với sáng chế, theo Điều 27 Hiệp định TRIPs ( Hiệp định về các khía cạnh thương mại có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ) thì bằng sáng chế có thể được cấp cho bất kì sáng chế nào, bất kể là sản phẩm hay quy trình trong tất cả các lĩnh vực công nghệ với điều kiện sáng chế đó là mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “ Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng được các điều kiện sau đây: Có tính mới; có trình độ sáng tạo; có khả năng áp dụng công nghiệp.” Căn cứ vào các quy định trên thì một sáng chế muốn được bảo hộ phải đáp ứng các tiêu chí cơ bản sau:
- Tính mới: Sáng chế được công nhận là mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây ( Điều 60 Luật sở hữu trí tuệ):
- Chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế
- Sáng chế nêu trong đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế không trùng với giải pháp được mô tả trong đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế đã được nộp cho cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu tiên sớm hơn
Tuy nhiên, bên cạnh đó luật pháp còn quy định về các trường hợp nhằm loại trừ khả năng làm mất tính mới của sáng chế như:
- Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu sáng chế bị người khác vô tình biết thông tin tự ý công bố nhưng không được phép của người nộp đơn và ngày người đó công bố nằm trong thời hạn 6 tháng trước ngày nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng sáng chế
- Sáng chế được người có quyền đăng kí theo quy định của pháp luật công bố dưới dạng báo cáo khoa học trong thời hạn 6 tháng trước ngày nộp đơn
- Sáng chế được người có quyền đăng kí theo quy định của pháp luật trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức trong thời hạn 6 tháng trước ngày nộp đơn
- Có trình độ sáng tạo: Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạp nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên ( Điều 61 Luật sở hữu trí tuệ ).
- Có khả năng áp dụng công nghiệp: Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu về được kết quả ổn định. ( Điều 62 Luật sở hữu trí tuệ)
Tóm lại, theo quy định của pháp luật thì bất kì giải pháp kỹ thuật nào được 3 điều kiện: Tính mới, trình độ sáng tạo và tính hữu ích thì đều có thể cấp văn bằng bảo hộ độc quyền sáng chế.
Về phạm vi bảo hộ sáng chế: được quy định cụ thể trong các văn bản pháp lý quốc tế cũng như trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ thì các đối tượng sau đây không được nhà nước bảo hộ dưới dạng danh nghĩa sáng chế ( Điều 59 Luật sở hữu trí tuệ)
- Phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học
- Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính.
- Cách thức thể hiện thông tin
- Giải pháp chỉ mang đặc tính thẩm mỹ
- Giống thực vật, giống động vật
- Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà không phải là quy trình vi sinh
- Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật
5.2 Bằng sáng chế trong Luật thương mại quốc tế
Luật thương mại quốc tế quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông qua văn bằng sáng chế trong vòng ít nhất 20 năm. Cả sản phẩm lẫn phương thức sản xuất đều được bảo hộ trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ. Chính phủ các nước có thể từ chối cấp văn bằng sáng chế nếu việc khai thác kinh doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội. Họ cũng có thể không cấp văn bằng cho các phương pháp chẩn đoán, điều trị và phẫu thuật, các loại thực vật và động vật (không phải là các chủng vi sinh vật) và các phương pháp sinh học sản xuất giống cây trồng và vật nuôi (không phải là các phương pháp vi sinh).
Luật thương mại quốc tế có các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu văn bằng sáng chế. Tuy nhiên, ở đây cũng quy định một số ngoại lệ. Có thể xảy ra trường hợp người sở hữu văn bằng sáng chế lạm dụng các quyền của mình, như không cung ứng sản phẩm cho thị trường. Trong trường hợp đó chính phủ các nước có thể cấp “giấy phép bắt buộc” cho phép một đối thủ cạnh tranh được sản xuất sản phẩm này hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo hộ. Tuy nhiên, chính phủ các nước cũng đồng thời phải đáp ứng một số điều kiện nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của người giữ văn bằng sáng chế. Nếu là văn bằng sáng chế về quy trình sản xuất thì các sản phẩm được sản xuất trực tiếp từ quy trình này cũng được bảo hộ.
Cho tới gần đây , đối với việc bảo hộ các dược phẩm đã được cấp văn bằng sáng chế vẫn là vấn đề phức tạp nhất là chữa trị căn bệnh HIV/ AIDS. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để vừa không cản trở các nước nghèo tiếp cận các loại thuốc chữa bệnh, vừa duy trì được vai trò của văn bằng sáng chế là khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển trong ngành dược phẩm. Một số quy định mềm dẻo, như khả năng nhượng lại “giấy phép bắt buộc”, đã được đưa vào hiệp định TRIPs/WTO.
6. Thiết kế bố trí mạch tích hợp:
6.1 Định nghĩa và nội dung:
Trong điều kiện sống hiện đại ngày nay, các trang thiết bị ngày càng tinh xảo và phát huy tối đa tác dụng để phục vụ cho nhu cầu của con người thì không thể nhắc đến vai trò vô cùng quan trọng của mạch điện tử. Các quy định của pháp luật về thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp và tương thích với các văn bản pháp lí quốc tế như Hiệp định TRIPs, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kì và Hiệp ước về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp năm 1989 ( viết tắt là IPIC). Khoản 15 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “ Thiết kế bố trí mạch tích hợp ( sau đây gọi là thiết kế bố trí ) là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn”
Điều kiện bảo hộ đối với thiết kế bố trí: Quyền đối với thiết kế bố trí phát sinh trên cơ sở văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thiết kế bố trí cấp. Một thiết kế bố trí chỉ được cấp giấy chứng nhận đăng ký nếu có “tính nguyên gốc” và “ tính mới thương mại”
Trước hết, về tính nguyên gốc, tính nguyên gốc của thiết kế bố trí được công nhận nếu thỏa mãn được hai yếu tố sau đây. Thứ nhất, thiết kế bố trí đó là kết quả lao động sáng tạo của chính tác giả thiết kế bố trí. Tác giả thiết kế bố trí đã có sự đầu tư trí tuệ nhất định để tạo ra một bước tiến mới trong công nghệ thiết kế mạch. Hay nói cách khác, thiết kế bố trí đó không phải là sự sao chép, copy của bất khi thiết kế nào đó đã có từ trước mà chính là thành quả của sự nỗ lực của trí tuệ của tác giả. Thứ hai, tại thời điểm được tạo ra, thiết kế bố trí đó chưa được biết đến rộng rãi trong giới những người sáng tạp thiết kế bố trí và những nhà sản xuất mạch tích hợp. Đây chính là yêu cầu về tính mới của thiết kế bố trí. Thiết kế bố trí yêu cầu bảo hộ phải chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức chủ yếu như lời nói, văn bản hay đã được đưa vào sử dụng trong thực tế hoặc bị tiết lộ dưới bất cứ hình thức nào khác. Một điểm cần lưu ý là phạm vi bộc lộ ở đây chỉ bị giới hạn trong giới những người sáng tạo thiết kế bố trí và những nhà sản xuất mạch tích hợp.
Bên cạnh đó, tính thương mại của thiết kế bố trí được hiểu là thiết kế bố trí đố chưa từng được đưa vào khai thác trong thực tế với mục đích thương mại tại bất khi nơi nào trên thế giới trước ngày nộp đơn đăng ký ( Điều 71 Luật sở hữu trí tuệ). Khai thác thiết kế bố trí nhằm mục đích thương mại là các mạch tích hợp bán dẫn được sản xuất theo thiết kế bố trí hay hàng hoá có chứa mạch tích hợp bán dẫn đó đã được phân phối công khai trên thị trường nhằm mục đích thương mại. Như vậy, tính mới của thiết kế bố trí chỉ đặt ra trong lĩnh vực thương mại và được xét trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, có một ngoại lệ không được coi là làm mất tính mới thương mại của thiết kế bố trí mặc dù thiết kế bố trí này đã được đưa vào khai thác thương mại trên thực tế, ngoại lệ này phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Việc khai thác thương mại thiết kế bố trí này được tiến hành bởi những người có quyền nộp đơn đăng khi cấp văn bằng bảo hộ theo quy định của pháp luật hoặc bởi những người được người đó cho phép.
- Thời điểm lần đầu tiên khai thác thương mại thiết kế bố trí tại bất kỳ đâu trên thế giới đến thời điểm nộp đơn đăng ký không quá 2 năm
Về phạm vi bảo hộ: Pháp luật quy định các đối tượng sau không được bảo hộ dưới danh nghĩa của thiết kế bố trí và sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng ký: Nguyên lý, quy trình, hệ thống, phương pháp được thực hiện bởi mạch tích hợp bán dẫn.
6.2 Thiết kế bố trí mạch tích hợp trong Luật thương mại quốc tế:
Việc bảo hộ sơ đồ bố trí mạch tích hợp được thực hiện trên cơ sở hiện định Washington về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp. Tuy đã được thông qua vào năm 1989 nhưng hiệp định này vẫn chưa có hiệu lực. Hiệp định TRIPs/ WTO bổ sung thêm một số điều khoản chẳng hạn như mạch tích hợp phải được bảo hộ ít nhất 10 năm.
7. Hợp đồng li – xăng:
7.1 Định nghĩa và nội dung:
Khoản 1 Điều 141 Luật Sở hữu trí tuệ quy định chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (hay còn gọi là li-xăng) là việc chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình.
Theo đó, hợp đồng li-xăng là dạng đặc thù của hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đây là hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ mà theo đó, tổ chức, cá nhân nắm độc quyền sử dụng một đối tượng sở hữu trí tuệ cho phép cá nhân tổ chức khác sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ đó.
Hợp đồng Li – xăng hay còn gọi là hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp gồm có 03 dạng:
- Hợp đồng li-xăng độc quyền: là hợp đồng mà theo đó trong phạm vi và thời hạn chuyển giao, bên được chuyển quyền được độc quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, bên chuyển quyền không được ký kết hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp với bất kỳ bên thứ ba nào và chỉ được sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp đó nếu được phép của bên được chuyển quyền.
- Hợp đồng li-xăng không độc quyền: là hợp đồng mà theo đó trong phạm vi và thời hạn chuyển giao quyền sử dụng, bên chuyển quyền vẫn có quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, quyền ký kết hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp không độc quyền với người khác.
- Hợp đồng li xăng thứ cấp là hợp đồng mà theo đó bên chuyển quyền là người được chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp đó theo một hợp đồng khác.
Ngoài ra, theo tính chất tự nguyện Li-xăng, còn có thể chia thành Li-xăng tự nguyện và Li-xăng bắt buộc. Hợp đồng li-xăng tự nguyên là hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo ý muốn của chủ sở hữu đối tượng. Chủ sở hữu tuỳ chọn việc chuyển giao cho người nào mà không phải bắt buộc thực hiện. Hợp đồng li-xăng bắt buộc là việc cá nhân, tổ chức nắm độc quyền sử dụng đối với sáng chế buộc phải chuyển giao quyền sử dụng sáng chế của mình cho tổ chức, cá nhân khác theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà không cần sự đồng ý của người nắm độc quyền sử dụng sáng chế trong các trường hợp như vì mục đích an ninh, quốc phòng, y tế, phi thương mại,… theo quy định pháp luật.
Đối tượng của hợp đồng li xăng là quyền sử dụng đối với sáng chế ,kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu ( trừ nhãn hiệu tập thể không thể chuyển giao cho tổ chức cá nhân không phải là thành viên của tổ chức tập thể đó), thiết kế bố trí và bí mật kinh doanh ( Điều 141, Điều 142 Luật sở hữu trí tuệ). Việc li- xăng phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Đối tượng li – xăng phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp
- Quyền sở hữu công nghiệp tương ứng phải được thừa nhận tại Việt Nam và văn bằng bảo hộ tương ứng đang còn hiệu lực
- Việc chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn
Đối với quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý và tên thương mại không thể là đối tượng của hợp đồng li xăng. Quy định này của pháp luật Việt Nam hoàn toàn phù hợp với các quy định của các văn bản pháp luật quốc tế về hợp đồng li xăng bởi chỉ dẫn địa lý là tài sản thuộc sở hữu nhà nước và chỉ trao quyền sử dụng cho tổ chức,cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tại địa phương đó. Còn tên thương mại được chủ sở hữu sử dụng trong các giấy tờ giao dịch, sản phẩm…trong sản xuất kinh doanh mà không được chuyển giao cho chủ thể khác.
Việc chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp bị hạn chế trong các trường hợp được quy định tại Điều 142 như sau:
- Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, tên thương mại không được chuyển giao;
- Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó;
- Bên nhận chuyển quyền không được ký kết hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, trừ trường hợp được bên chuyển quyền cho phép.
- Bên nhận chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có nghĩa vụ ghi chỉ dẫn trên hàng hóa, bảo trì hàng hóa về việc hàng hóa đó được sản xuất theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu.
- Bên nhận chuyển quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng độc quyền có nghĩa vụ sử dụng sáng chế như chủ sở hữu sáng chế theo quy định.
7.2 Hợp đồng li – xăng trong Luật thương mại quốc tế:
Chủ sở hữu bản quyền tác giả, văn bằng hoặc bất cứ quyền sở hữu trí tuệ nào khác đều có thể cho phép một người khác sản xuất hay sao chép nhãn hiệu hàng hoá hoặc dịch vụ, tác phẩm, sáng chế, bản vẽ hoặc các mẫu mã được bảo hộ. Luật thương mại quốc tế cho phép trong một số trường hợp, người chủ sở hữu có thể hạn chế ký kết các hợp đồng chuyển giao công nghệ, bản quyền tác giả dạng độc quyền, không có cạnh tranh hoặc cản trở việc chuyển giao công nghệ bằng cách đưa vào hợp đồng chuyển giao đối của quyền sở hữu trí tuệ. Luật thương mại quốc tế cũng cho phép chính phủ các nước, trong một số điều kiện nhất định, có quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa hành vi chống cạnh tranh và lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực nhượng bản quyền. Tuy vậy , chính phủ các nước phải sẵn sàng tham khảo nhau nhằm hạn chế áp dụng các hành vi này.
8. Bí mật kinh doanh:
8.1 Định nghĩa và nội dung:
Thông thường bí mật kinh doanh được hiểu như một thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, được giữ bí mật và có một giá trị kinh tế nhất định bởi nó tạo cho người nắm giữ thông tin một lợi thế trước những đối thủ cạnh tranh. Thông tin bí mật bao gồm bí mật kinh doanh, thông tin đặc quyền và thông tin không bị tiết lộ khác chưa trở thành đối tượng phải bị tiết lộ công khai không hạn chế theo pháp luật ( khoản 1 Điều 2 Chương 2 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ). Bên cạnh đó, theo Điều 39.3 Hiệp định TRIPs thì thông tin không được tiết lộ khác như những thử nghiệm hoặc dữ liệu không được tiết lộ nhất định được đệ trình như là điều kiện để phê duyệt việc tiếp thị, dược phẩm hoặc các sản phẩm hoá nông có sử dụng các thành phần hoá học mới.
Khái niệm bí mật kinh doanh được quy định tại khoản 23 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ như sau: “ Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”
Điều kiện bảo hộ đối với bí mật kinh doanh: Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng được các điều kiện được nêu ở Điều 84 Luật sở hữu trí tuệ sau đây:
- Không phải là hiểu biết thông thường hoặc không dễ dàng có được
- Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với những người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó
- Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được
Như vậy, bí mật kinh doanh muốn được bảo hộ phải đáp ứng những điều kiện cơ bản sau:
- Tính sáng tạo: Các thông tin chứa đựng bí mật kinh doanh không phải là những hiểu biết thông thường hay không dễ dàng có được, Các thông tin này là thành quả của cả quá trình đầu tư của chủ sở hữu phục vụ cho việc nghiên cứu, sáng tạo hay là sự đúc rút cả quá trình đầu tư trí tuệ, nó còn là sự kết tụ của cả hoạt động đầu tư tài chính lẫn đầu tư trí tuệ. Ví dụ như công thức hợp chất hoá học, mẫu máy, chiến lược quảng cáo,…Bí mật kinh doanh phải là quy trình hoặc thiết bị để sử dụng liên tục khi tiến hành công việc kinh doanh. Chính vì vậy, những thông tin đó bao giờ cũng hàm chứa một lượng tri thức sáng tạo nhất định.
- Tính hữu ích ( hay còn gọi là giá trị thương mại của bí mật kinh doanh): Các thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính và trí tuệ đó phải có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Hay nói cách khác, những thông tin như vậy áp dụng được trong hoạt động thực tiễn kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Và khi sử dụng chúng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin nhiều lợi thế hơn người không nắm hoặc không sử dụng thông tin đó. Thông tin đó phải tạo ra giá trị kinh tế, giá trị thương mại cho người nắm giữ, sử dụng chúng.
- Tính bảo mật: Trước tiên, các thông tin đó còn phải tồn tại trong tình trạng bí mật, có nghĩa là những người thường xuyên sử dụng, xử lí thông tin đó không biết đến hoặc không thể dễ dàng tiếp cận được thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ. Một thông tin cũng được coi là có tính bí mật nếu như chỉ có phạm vi hạn chế người biết được thông tin đó. Bên cạnh đó, thông tin đó được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết như:
- Biện pháp hạn chế việc biết được hoặc tiếp cận được thông tin
- Biện pháp chống bộc lộ thông tin
Không chỉ vậy, pháp luật cũng quy định về các thông tin mật không được bảo hộ dưới danh nghĩa bí mật kinh doanh như sau: “ Các bí mật nhân thân; về quản lí nhà nước; về an ninh, quốc phòng; các thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh (Điều 85 Luật sở hữu trí tuệ).
8.2 Bí mật kinh doanh trong Luật thương mại quốc tế:
Bí quyết kinh doanh và các loại “thông tin mật” khác có giá trị thương mại phải được bảo vệ nhằm ngăn chặn việc lạm dụng lòng tin và các hành vi khác trái với nguyên tắc làm ăn trung thực. Tuy vậy, cũng cần phải đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ bí mật của các thông tin này. Nếu được cung cấp các kết quả thử nghiệm trong quá trình cấp phép dược phẩm hoặc sản phẩm hoá học phục vụ nông nghiệp thì chính phủ phải bảo vệ các kết quả này nhằm ngăn ngừa việc khai thác thương mại bất hợp pháp.
Trần Vy Khanh tổng hợp lại.
Mời quý bạn xem tiếp phần 3: CƠ SỞ PHÁP LÝ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Mời quý bạn xem phần 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ