Số đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam đã tăng gần gấp đôi trong giai đoạn từ năm 2007 (2.860 đơn) đến 2017 (5.382 đơn).
Số liệu trên do ThS Nguyễn Minh Huyền Trang, Phó giám đốc phụ trách Trung tâm Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ – Đại học Quốc gia TP HCM, cung cấp tại hội thảo “Thương mại hoá kết quả nghiên cứu khoa học, bài học từ các nước, thực trạng và đề xuất mô hình thương mại hoá kết quả nghiên cứu khoa học” do Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (Saigon Innovation Hub – Sihub) tổ chức chiều 20-7.
ThS Huyền Trang cho biết năm 2017 là năm Việt Nam có nhiều bằng độc quyền sáng chế được cấp nhiều nhất – 109 bằng (chiếm chưa đến 7% số bằng được cấp trong năm). Trong khi đó, số bằng độc quyền sáng chế cấp cho các chủ thể nước ngoài là 1.636 (chiếm đến hơn 93% số bằng được cấp trong năm).
Nếu so sánh với một số nước trong khu vực Asean+ 3 thì chúng ta đứng cuối và cách biệt khá xa với Thái Lan, Singapore. Theo tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, năm 2017, tổng số đơn sáng chế và giải pháp hữu ích của Thái Lan, Malaysia và Việt Nam lần lượt là 3.133, 1.439 và 669.
“Hiện vẫn còn khoảng 10% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ từ những năm 1970, 30% sử dụng công nghệ từ những năm 1980 và 50% sử dụng công nghệ từ những năm 1990. Chính vì sử dụng công nghệ lạc hậu, sản phẩm của các doanh nghiệp Việt không đáp ứng được chất lượng, mẫu mã nên sức cạnh tranh thấp” – Ths Huyền Trang nói.
ThS Huyền Trang cho rằng nếu xác định các kết quả nghiên cứu phải bảo đảm tính mới – sáng tạo và tính ứng dụng trong thực tiễn thể hiện ở số lượng đơn đăng ký sở hữu trí tuệ nói chung và số đơn đăng ký sáng chế nói riêng như hiện nay thì không phản ánh đúng tiềm năng của các trường, viện. Quá trình chuyển giao công nghệ giữa đại học – doanh nghiệp còn nhiều bất cập và là vấn đề rất cấp thiết trong phát triển nghiên cứu khoa học.
Cũng nhìn nhận thực trạng này, ông Huỳnh Kim Tước, Giám đốc điều hành Sihub, cho biết đã tham khảo nhiều mô hình thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học của một số nước. Một số mô hình phổ biến như mô hình chuyển giao công nghệ, mô hình vườn ươm doanh nghiệp, mô hình công ty đại diện, mô hình công ty cổ phần.
Ông Tước chỉ ra rằng ở các nước tiên tiến, hoạt động nghiên cứu là kim chỉ nam, giảng viên, nhà khoa học lấy hoạt động nghiên cứu làm nguồn thu chủ yếu. Ngược lại ở Việt Nam, tại các trường đại học, việc dạy vẫn là nhiệm vụ hàng đầu. Trong những năm gần đây, chủ trương áp dụng cơ chế tự chủ của Chính phủ đối với các trường đã thúc đẩy các cơ sở giáo dục bậc cao này tiệm cận với cơ chế thị trường; các trường phải quan tâm đến việc tạo được các sản phẩm, dịch vụ tốt cho thị trường từ nguồn lực sẵn có.
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều rào cản về chính sách, nhận thức, thói quen, kiến thức liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ… Ở cấp trường, công nghệ dừng lại tại phòng thí nghiệm nên rủi ro cao khi triển khai ứng dụng hoặc các trường đại học còn xem nhẹ việc nghiên cứu những đề tài, giải pháp có giá trị đối với sự phát triển của kinh tế-xã hội.
Riêng tại TP HCM, hiện tại, việc sáng chế được thương mại hoá tương đối khả quan nhưng chỉ mới tập trung một số trường như: Đại học Bách khoa, Đại học Nông Lâm TP HCM, Đại học Công nghiệp TP HCM…, sức lan toả thương mại hoá cũng chưa đạt kết quả cao.